LỊCH SỬ Y HỌC CỔ TRUYỀN – THẦN NÔNG VỊ TỔ SƠ KHAI CỦA NỀN Y HỌC PHƯƠNG ĐÔNG (P2)
Việt Nam ngày xưa, từ Đinh, Lý, Trần, Lê đến Nguyễn đều lập đàn Xã Tắc: “Đàn Xã Tắc thờ thần Đất và thần Nông (Xã là đất và Tắc là Ngũ Cốc, Thần Ngũ Cốc cũng có nghĩa là Thần Nông). “ Trong các nghi lễ do triều đình chủ trì ngày xưa, cúng đàn Xã Tắc và cúng đàn Nam Giao có ý nghĩa thiêng liêng bậc nhất, trong đó đàn Xã Tắc là biểu tượng của đất nước, quốc gia, dân tộc.” . Việc tế lễ diễn ra hàng năm hai kỳ rất trọng thị.
Dù ở Việt Nam ngày nay chế độ Phong Kiến không còn, nhưng việc tế lễ Ngài vẫn duy trì. Tuy nhiên, việc tế lễ có nhiều biến đổi so với ngày xưa. Sau đây là đoạn ghi nhận của tác giả Đoàn Nô việc tế lễ ở Tây Nam Bộ trong bài LỄ TẾ THẦN NÔNG Ở TÂY NAM BỘ :
“Theo đó thì Lễ Hạ Điền thường tiến hành vào các tháng 3-4-5 âm lịch, Lễ Thượng Điền thường diễn ra tháng 11 – 12 âm lịch. Xưa lúc dân ta còn làm lúa mùa (1 vụ) thì Lễ Hạ Điền thường cử hành trọng thể 3 ngày 3 đêm, có mướn gánh hát bội (bộ) diễn tuồng. Sau nầy, khi xuất hiện lúa Thần Nông- ngắn ngày (năm 1967 Thốt Nốt và Phú Tân (Hòa Hảo) là hai địa phương thử nghiệm thành công đầu tiên giống lúa ngắn ngày, cao sản), dần dần những năm sau cả hai lễ Thượng, Hạ (Điền) đều tổ chức trọng thể như nhau…” và
“Vật cúng Thần Nông thường là con heo sống, hoặc thủ vỉ chưa nấu chín. Cũng có nơi xẻ thịt heo nấu chín dọn ra thành mâm. Đặc biệt khu vực tỉnh An Giang phần đông các món ăn cúng tế Thần Nông được nấu chín đem nguyên nồi, chảo, bày ra trước sân đàn Xã Tắc khi tế lễ xong mới được đem vô nhà dọn ra mâm bàn đãi khách. Cũng có đình tế Thần Nông cúng chay (do ảnh hưởng tín ngưỡng Phật giáo Hòa Hảo).
Huyền thoại
Trong thần thoại Trung Quốc, Thần Nông ngoài việc là ông tổ nông nghiệp, người đã dạy dân trồng ngũ cốc và chế tạo ra cày bằng gỗ, ông tổ nghề gốm sứ và nghề y dược, thì đôi khi ông cũng được coi là tổ tiên hay thủ lĩnh của Xi Vưu; và giống như ông này, Thần Nông cũng là người có đầu giống đầu bò, sừng nhọn, trán đồng, đầu sắt. Một khác biệt giữa huyền thoại và khoa học được thể hiện trong thần thoại Trung Hoa: Thần Nông và Hoàng Đế được coi như là những người bạn và đồng học giả, cho dù giữa họ là khoảng thời gian trên 500 năm giữa vị Thần Nông đầu tiên và Hoàng Đế, và cùng nhau họ chia sẻ những bí quyết giả kim thuật dùng trong y dược, khả năng bất tử và chế tạo vàng
Theo sự bổ sung của Tư Mã Trinh vào Sử ký thì Thần Nông là bà con với Hoàng Đế và được coi là ông tổ của người Trung Quốc. Người Hán coi cả hai đều là tổ tiên chung của mình với thành ngữ “Viêm Hoàng tử tôn” (con cháu Viêm Hoàng). Ông chết do nếm phải một loại độc thảo mà không kịp lấy thuốc chữa, sau một thời gian dài từng nếm rất nhiều các loại độc thảo khác nhau. Ông được thần thánh hóa như là một trong số ba vị vua huyền thoại danh tiếng nhất, gọi chung là Tam Hoàng vì những đóng góp của mình cho loài người.
Cũng theo Tư Mã Trinh thì Thần Nông làm vua 140 năm, khi mất táng tại Trường Sa (nay thuộc tỉnh Hồ Nam). Kinh đô ban đầu đặt tại đất Trần, sau dời tới Khúc Phụ. Hậu duệ của ông truyền được 8 đời kéo dài 520 năm cho đến khi Hiên Viên Hoàng Đế nổi lên, ngoài ra Thần Nông còn có người con gái tên là Tinh Vệ.
Lịch sử
Khó có thể nói Thần Nông là một nhân vật lịch sử có thật hay không. Tuy nhiên, Thần Nông, dù là một cá nhân hay một thị tộc, là rất quan trọng trong lịch sử văn hóa đặc biệt khi nói tới thần thoại và văn học dân gian. Trên thực tế, Thần Nông được nhắc tới rất nhiều trong văn học lịch sử.
Thần Nông trong văn học
Mặc dù Tư Mã Thiên đề cập rằng các vị vua ngay trước Hoàng Đế là từ một nhà (hay nhóm sắc tộc) Thần Nông nhưng Tư Mã Trinh, người bổ sung thêm phần Tam Hoàng bản kỷ cho Sử ký, cho rằng Thần Nông là người họ Khương và liệt kê một danh sách những người kế vị ông. Trong cuốn sách cổ hơn, và ngày nay dường như được dẫn chiếu tới nhiều hơn, là Hoài Nam tử có viết: Trước khi có Thần Nông thì dân chúng mông muội, đói ăn và ốm đau bệnh tật; nhưng sau đó ông đã dạy dân chúng trồng ngũ cốc mà tự ông tìm ra, rồi việc nếm các loại cây cỏ, mà mỗi ngày có thể tới 70 loại khác nhau. Thần Nông cũng được nhắc tới trong Kinh Dịch. Tại đây ông được nói tới như là người trị vì sau khi kết thúc sự trị vì của nhà Bào Hy/Phục Hy, là người phát minh ra cày bằng gỗ với lưỡi cong cũng bằng gỗ, truyền các kỹ năng canh tác cho dân chúng và lập chợ ban ngày. Một dẫn chiếu khác có trong Lã Thị Xuân Thu, đề cập tới một số vụ bạo loạn khi Thần Nông nổi lên và cho biết quyền lực của Thần Nông thị kéo dài tới 17 thế hệ.
Trong văn hóa dân gian
Ông được cho là từng nếm thử hàng trăm loại cây cỏ để kiểm tra các tính chất dược học của chúng. Đóng góp được coi là của Thần Nông là Thần Nông bản thảo kinh – được biên tập và chỉnh lý lần đầu tiên vào khoảng cuối thời Tây Hán, vài ngàn năm sau khi Thần Nông tồn tại – trong đó có liệt kê nhiều loại cây cỏ khác nhau, như linh chi, được Thần Nông tìm ra và đánh giá phẩm cấp, tính năng. Tác phẩm này được coi là dược điển sớm nhất của người Trung Quốc. Nó cũng bao gồm 365 vị thuốc tổng hợp từ khoáng vật, cây cối và động vật. Thần Nông được coi là đã nhận dạng hàng trăm loại dược thảo và độc thảo bằng cách tự mình nếm thử để tìm hiểu tính chất của chúng, là cốt yếu đối với sự phát triển của y học cổ truyền Trung Hoa. Truyền thuyết cũng kể rằng ban đầu Thần Nông có thân hình trong suốt và vì thế ông có thể nhìn thấy các tác động của các loại cây cỏ khác nhau lên cơ thể mình. Trà, được coi là thuốc giải đối với các tác động gây ngộ độc của khoảng 70 loại cây cỏ, cũng được coi là phát hiện của ông. Phát hiện này được coi là vào năm 2737 TCN, mà theo đó Thần Nông lần đầu tiên nếm thử trà từ những chiếc lá chè trên cành trà bị cháy, được gió nóng của đám cháy đưa tới và rơi vào vạc nước sôi của ông. Thần Nông được tôn kính như là ông tổ của y học Trung Hoa. Ông cũng được coi là người đã đề ra kỹ thuật châm cứu.
Người ta cũng cho rằng Thần Nông đóng một vai trò trong việc tạo ra cổ cầm, cùng với Phục Hy và Hoàng Đế. Một số công trình học thuật cũng đề cập rằng dòng họ đằng cha của viên tướng nổi tiếng thời nhà Tống là Nhạc Phi có nguồn gốc từ Thần Nông.
Việt Nam
Tại Việt Nam thì Thần Nông được xem là thủy tổ của người Việt.
Trong Đại Việt Sử ký Toàn thư, phần lời tựa của Ngô Sĩ Liên chép: “Nước Đại Việt ở phía nam Ngũ Lĩnh, thế là trời đã phân chia giới hạn Nam–Bắc. Thuỷ tổ của ta là dòng dõi họ Thần Nông, thế là trời sinh chân chúa, có thể cùng với Bắc triều mỗi bên làm đế một phương”.
Lịch sử
Theo Đại Việt sử ký toàn thư: Vua Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông, đi tuần thú phương Nam, đến núi Ngũ Lĩnh (nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung Hoa), gặp một nàng tiên, lấy nhau đẻ ra người con tên là Lộc Tục. Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc (từ núi Ngũ Lĩnh về phía Bắc), phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam (từ núi Ngũ Lĩnh về phía Nam), xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ. Kinh Dương Vương làm vua Xích Quỷ vào năm Nhâm Tuất 2897 TCN, lấy con gái Động Đình Hồ quân (còn có tên là Thần Long) là Long nữ sinh ra Sùng Lãm, nối ngôi làm vua, xưng là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy con gái vua Đế Lai (con của Đế Nghi), tên là Âu Cơ, sinh một lần trăm người con trai. Một hôm, Lạc Long Quân bảo Âu Cơ rằng: “Ta là giống rồng, nàng là giống tiên, thủy hỏa khắc nhau, chung hợp thật khó”. Bèn từ biệt nhau, chia 50 con theo mẹ về núi, 50 con theo cha về ở miền biển (có bản chép là về Nam Hải), phong cho con trưởng làm Hùng Vương, nối ngôi vua.
Hết phần 2
Trả lời